Clbvanchuong. Dịch thơ . Trần Lê Văn 1892025

Trần Lê Văn Làm thơ là một việc khó, dịch thơ đâu phải là một việc dễ. Có khi dịch thơ còn khó hơn cả làm thơ. Vì người làm thơ được chủ động trong cấu tứ, tạo tứ, không phải tùy thuộc vào sự sáng tạo của người khác. Trái lại người dịch thơ phải khuôn theo sự lập ý, lập tứ và sử dụng ngôn từ của tác giả bài thơ, lại phải chuyển tải cái hay từ một ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác, làm sao cho người đọc không chỉ hiểu được ý tứ bài thơ nguyên tác mà điều chủ yếu là cảm nhận được cái thần, cái hồn của nguyên tác. Ngày nay khoa học đã sáng chế được máy phiên dịch, nhưng phiên dịch thể loại gì được, chứ phiên dịch tác phẩm văn học, nhất là phiên dịch thơ thì máy móc dù tinh vi đến đâu cũng không thay thế được con người. Về việc dịch thơ, đành rằng dịch giả phải phụ thuộc vào sự sáng tạo của tác giả, nhưng lại rất cần sự sáng tạo của chính mình. Thậm chí dịch giả phải phát huy tài năng đến mức không chịu thua kém tác giả. Andrei Makine, một nhà văn Pháp gốc Nga có nói: “Với văn xuôi, người dịch là nô bộc; với thơ, người dịch là đối thủ.” Ý nói dịch văn xuôi càng bám sát càng tốt, còn dịch thơ thì cần phải đua tài, có khi vượt tài tác giả. Nói thế thôi, chứ văn xuôi không phải chỉ bám sát là đủ, nhất là những áng văn xuôi có chất thơ. Đọc những dịch phẩm hay, tôi xác nhận lời Makine nói về vai trò “đối thủ” là đúng. Lẽ đương nhiên, công việc đầu tiên của người dịch là phải nắm được ý nghĩa của câu chữ bài thơ nguyên tác và không thể làm sai lạc ngữ nghĩa trong đó được. Nhưng nếu chỉ giới hạn ở việc “dịch nghĩa” thôi thì đâu phải là “dịch thơ”. Dịch sát nghĩa là cần nhưng có điều oái oăm là nếu chỉ khư khư trong công việc “sát nghĩa” mà không có sáng tạo thì đúng mà hóa ra sai, dịch mà hóa ra “phản”, mắc phải cái lỗi “dịch là phản” (Traduire c’est trahir). “Sát” nhưng phải “thoát”. “Thoát” là thoát ra ngoài cái xác chữ để bắt gặp cái thần, cái hồn của thơ. Ngay trong phần đầu của áng ngâm “Chinh phụ” bản chữ Hán của Đặng Trần Côn có câu: Cổ bề thanh động Trường Thành nguyệt Dịch nghĩa là: “Tiếng trống làm rung động vầng trăng Trường Thành”, mà Đoàn Thị Điểm dịch là: Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt Thế là người dịch đã đưa hẳn Trường Thành lên để cho thấy tiếng trống trận từ đó nổi lên làm cho vầng trăng trong sáng và yên tĩnh cũng không còn trong sáng và yên tĩnh được nữa. Tách “trăng” ra khỏi “Trường Thành” để nổi bật một hình tượng của hòa bình bị chiến tranh làm náo động. Hai chữ “lung lay” mới lột được thần thái ấy. Bài thơ “Hoàng Hạc lâu” của nhà thơ Thôi Hiệu đời Đường (Trung Quốc) bắt đầu bằng hai câu: Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu Dịch nghĩa: Người xưa đã cưỡi Hạc vàng (bay) đi Đất này chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc Mà Tản Đà dịch là: Hạc vàng ai cưỡi đi đâu? Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ thì quả là có thể nói: câu thơ dịch có phần hay hơn câu thơ nguyên tác. Trong thơ nguyên tác, tác giả chỉ khẳng định là người tiên đã đi mất, chỉ có tòa lầu còn lại. Trong thơ dịch, mấy chữ “ai” và “đi đâu?” gợi cảm giác cô quạnh của tòa lầu vô chủ. Dịch giả không bịa đặt gì ngoài ý tứ của tác giả. Sáng tạo là ở chỗ: làm nổi ý tứ tiềm ẩn của tác giả. Dịch bài thơ “Thu sơn” (Núi mùa thu) của Bạch Cư Dị (cũng là thi sĩ lớn đời Đường) Tản Đà cũng phát huy tính sáng tạo độc đáo. Nguyên tác chữ Hán (trích): ... Nhân sinh vô kỉ hà Như kí thiên địa gian Tâm hữu thiên tải ưu Thân vô nhất nhật nhàn Dịch nghĩa: Đời người ta sống chẳng được bao lâu Như tạm gửi trong khoảng trời đất Lòng có mối lo nghĩ ngàn năm Thân không có một ngày nhàn nhã Tản Đà dịch thơ: ... Người ta sống có bao lâu Ở trong trời đất cùng nhau tạm thời Mối lo mang lấy nghìn đời Một ngày chẳng được hơi rồi tấm thân Vì yêu cầu thơ lục bát, câu 2 phải thêm hai chữ “cùng nhau”. Nhưng xem ra cũng không thừa mà lại thêm được cái ý người ta khi sống thì cùng nhau hội ngộ, khi chết thì rời nhau biệt li. Câu 3 còn nặng nghĩa hơn nguyên tác: con người vừa mang mối lo, vừa mang nghìn đời trong một đời. Lại một bài thơ khác của Bạch Cư Dị: “Vãn Hoài thủy” (Hỏi nước sông Hoài). Nguyên tác chữ Hán: Tự ta danh lợi khách Nhiễu nhiễu tại nhân gian Hà sự trường Hoài thủy Đông lưu diệc bất nhàn? Dịch nghĩa: Ta tự thương mình là khách trong vòng danh lợi Cứ quanh quẩn bị ràng buộc ở nhân gian Chứ sông Hoài có bận việc gì Mà cứ miệt mài chảy về hướng đông, không sao thong thả được? Tản Đà dịch thơ: Trong vòng danh lợi thương ta Cái thân nhăng nhít cho qua với đời Việc chi, hỡi nước sông Hoài Cũng không thong thả, miệt mài về đông? "Cái thân nhăng nhít..." nghĩ thật buồn cười mà sâu sắc. Trong nguyên tác, Bạch Cư Dị dùng chữ “nhiễu nhiễu” (quanh quẩn) là có ý tự cười mình rồi. Nâng lên chút nữa, Tản Đà dịch là “nhăng nhít” thì sự tự cười càng cay chua hơn. Chuyện danh lợi ở đời là chuyện “nhăng nhít”. Thế là mình cứ dấn cái thân mình vào. Thân mình cũng hóa ra “nhăng nhít". Dịch như thế, thi sĩ Tản Đà không “phản” lại ý tứ của tác giả mà lại gửi gắm được chút gì của mình vào chữ nghĩa. Thế mới biết người dịch thơ vừa phải trung thực với tâm tư người sáng tác ra bài thơ lại phải vừa phản ánh được ít nhiều cái chất con người của chính mình. Ở đây, trong việc dịch thơ, Tản Đà có thoáng bộc lộ cái chất ngông ngạo, chua chát của mình. Danh nhân trong tranh phải giống chính bản thân danh nhân lại cũng thể hiện tính cách của họa sĩ. Tranh chân dung Nguyễn Tuân của Bùi Xuân Phái không y hệt tranh chân dung Nguyễn Tuân của Nguyễn Sáng chẳng hạn. Cũng như vậy, thơ Bạch Cư Dị qua bản dịch của Tản Đà không y hệt thơ Bạch Cư Dị qua bản dịch của người khác. Thơ Đường của Trung Quốc đã được nhiều nhà thơ Việt Nam xưa nay dịch ra thơ Việt. Gần đây một anh bạn thơ của chúng tôi là Nguyễn Hà cho ra mắt bạn đọc tập thơ tuyển dịch “Đường Thi tứ tuyệt”. Trong hai trăm bài thơ dịch rất công phu và hào hứng của anh có không ít bài thơ dịch lí thú. Thơ tứ tuyệt ít lời mà giàu cảm xúc. Dịch thơ tứ tuyệt cũng phải cô đọng mà khoáng đạt. Trong những bài dịch mà chúng tôi lấy làm thích hãy tạm nêu vài bài như sau: “Tống sứ An Tây” của Vương Duy, nguyên tác chữ Hán: Vị thành triêu vũ ấp khinh trần Khách xả thanh thanh liễu sắc tân Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu Tây xuất Dương Quan vô cố nhân Dịch nghĩa: “Tiễn người đi sứ An Tây” Mưa sớm mai ướt bụi đất Vị Thành Nơi quán khách, liễu mang màu xanh tươi mới Mời bạn hãy uống cạn thêm chén nữa Đi về phía tây, ra khỏi Dương Quan, sẽ không có ai là cố nhân nữa Nguyễn Hà dịch thơ: Thành Vị mưa mai thấm bụi trần Liễu rờn quán trọ sắc ngời xuân Chén đưa xin cạn thêm lần nữa Ra khỏi Dương Quan ai cố nhân? “Nơi quán khách, liễu mang màu xanh tươi mới” mà chuyển thành “Liễu rờn quán trọ sắc ngời xuân” thì vừa sát với ý tứ của nguyên tác vừa thoải mái, gợi cảm. “Sẽ không có ai là cố nhân”, tác giả viết theo thể khẳng định mà dịch giả chuyển thành thể nghi vấn: “ai cố nhân?” vừa gọn vừa bâng khuâng. “Tự khiển” của Lí Bạch, nguyên tác chữ Hán: Đối tửu bất giác minh Hoa lạc doanh ngã y Túy khởi bộ khê nguyệt Điểu hoán, nhân diệc hy Dịch nghĩa: “Tự khuấy khỏa” Trước cuộc rượu bất ngờ trời tối Hoa rụng đầy trên áo ta Ta say, đứng dậy đi theo trăng dọc suối Chim và người đều vắng như nhau Nguyễn Hà dịch thơ: Rượu xong bất ngờ tối Áo ta đầy hoa rơi Chếnh choáng trăng dọc suối Chim không - vắng bóng người Câu thứ 3 ý nói thi nhân say mà đi với trăng dọc bờ suối, mà dịch là “chếnh choáng trăng...” thì nghe cũng thêm khoái vì trăng cũng say với người. Con người với thiên nhiên đồng cảm là như vậy. Dịch thơ thế là dịch giả có đồng cảm với tác giả. Xưa nay thơ càng hay càng khó dịch. Vì cái hay trong nguyên tác đa diện quá, đa dạng quá, sức chứa phong phú quá, người dịch làm sao chuyển tải nổi. Thơ truyện Kiều của Nguyễn Du đã vươn tới đỉnh cao của thơ, của truyện trong văn học Việt Nam. Người trong nước, người nước ngoài đã dịch tác phẩm thơ - truyện ấy ra nhiều thứ ngôn ngữ. Tuy nhiên khó đánh giá bản dịch nào tiếp cận với nguyên tác. Ở đây chúng ta không đi vào chuyên đề dịch thơ - truyện Kiều. Tôi chỉ xin lấy một vài thí dụ về cái... khó dịch trong tác phẩm kì vĩ ấy. Chỉ một câu: Tưởng bây giờ là bao giờ thể hiện cái cảm quan bàng hoàng về quá khứ và hiện tại trong dòng thời gian vô cùng, vô tận. Hai chữ “bây” và “bao” cùng bắt đầu bằng phụ âm “b” gợi ra một cái gì nhập nhòa, hòa lẫn, làm sao có thể dịch ra ngoại ngữ được. Lại một cặp câu: Cùng nhau ngậm thở ngùi than Chia phôi ngừng chén, hợp tan nghẹn lời Tâm trạng cảm thương về nỗi tan hợp ở đời được thể hiện bằng lời thơ ấy, nhạc điệu tâm hồn nghẹn ngào ấy, dịch sao cho “sát” và “thoát” được. Trong những thành tựu dịch thơ của các dịch giả nước ngoài, tôi rất chú ý đến trường hợp nhà thơ Pháp Guillevic dịch thơ Hungari. Tập thơ dịch của ông nhan đề là “Những nhà thơ Hungari của tôi” được độc giả Pháp và độc giả Hung thích thú đặc biệt. Đến mức có người bạn Hung đọc bài thơ dịch mà cảm động đến rơi nước mắt. Trong bài tựa tập thơ dịch, Guillevic tâm sự: “Trước hết, với nhà thơ dịch giả bắt đầu công việc say mê là khai phá bài thơ mà người đọc chưa biết. Bản dịch nghĩa, dòng tiếp dòng, chưa cống hiến được bài thơ cho người đọc. Đối với tôi, chỉ khi nào dịch xong bài thơ, tôi mới biết được bài thơ. Trong quá trình dịch, tôi tìm hiểu bài thơ, tôi mò mẫm với sự giúp đỡ của kẻ “đồng lõa” với tôi, lần từng chữ một, từng câu một, từng hình ảnh một, từng vần một, từng thanh âm một, từng khổ thơ một, để nắm bắt được bài thơ, nắm bắt được cái thực thể của nó, cái độc đáo của nó, cái cá tính của nó, không giống trăm nghìn bài thơ khác. Nếu người đồng dịch giả của tôi giỏi, anh ta giúp tôi xâm nhập vào nội tạng bài thơ tiếng Hung. Có những lần tôi tưởng nắm bắt được rồi, thế mà chỉ một chữ, một hình ảnh chợt phát hiện ra, cho biết rằng tôi chưa nắm bắt được. Lại phải cố gắng nữa, lại phải ôm ấp bài thơ chập chờn có có không không ấy. Và lại bắt đầu lại tất cả vì tôi cảm thấy rằng cái “khuôn” tôi tạo ra không hợp. Dáng dấp, phong cách, âm điệu bài thơ nguyên tác không phải thế! ...” Kinh nghiệm dịch thơ của Guillevic cũng giúp chúng ta tham khảo, suy ngẫm để luyện tay nghề trong việc dịch thơ. Nguồn: VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI (số 6/1997) Người đăng: Vũ Nho Ninh Bình vào lúc 08:43 Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest Nhãn: Bài viết của bạn b è, PHÊ BÌNH VĂN HỌC vnp_hoi_hoa_xuan_ecopark_2019_1

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Hồi ký Thơ phổ nhạc

Mình thăm Hollywood u s a -1 6 2021

Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi ( khảo dị )